Thiết kế và chế tạo SMS_Prinzregent_Luitpold

Sơ đồ mô tả lớp Kaiser, vùng màu xám là khu vực của con tàu được bảo vệ bằng vỏ giáp

Được đặt hàng dưới cái tên trong hợp đồng Ersatz Odin[Ghi chú 1] như là sự thay thế cho chiếc hải phòng hạm Odin đã lạc hậu,[2] Prinzregent Luitpold được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng HowaldtswerkeKiel vào tháng 10 năm 1910.[3] Con tàu hạ thủy vào ngày 17 tháng 2 năm 1912, và công việc trang bị hoàn tất tiếp nối sau đó. Tàu ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày 19 tháng 8 năm 1913.[4] Prinzregent Luitpold được chế tạo với những thiết bị phục vụ cho vai trò chỉ huy hải đội, và nó trở thành soái hạm của Hải đội Chiến trận 3 sau khi đi vào hoạt động.[5]

Con tàu có chiều dài chung 172,4 m (566 ft) và trọng lượng choán nước tối đa 27.000 tấn (27.000 tấn Anh; 30.000 tấn thiếu); mạn thuyền rộng 29 m (95 ft), độ sâu của mớn nước trước mũi là 9,1 m (30 ft) và sau đuôi là 8,8 m (29 ft). Hai bộ turbine Parsons giúp dẫn động Prinzregent Luitpold được cung cấp hơi nước từ 14 nồi hơi đốt than. Không giống như những chiếc tàu chị em, ban đầu tàu dự định sử dụng một động cơ diesel để dẫn động trục giữa, nhưng đã không thành hiện thực vào lúc con tàu hoàn tất. Do động cơ này không bao giờ được trang bị nên Prinzregent Luitpold hơi chậm hơn so với những tàu chị em cùng lớp vốn có một turbine thứ ba dẫn động trục giữa. Hệ thống động lực của nó cho phép đạt tốc độ tối đa 21,7 hải lý trên giờ (40,2 km/h; 25,0 mph). Nó mang theo 3.600 tấn (3.500 tấn Anh; 4.000 tấn thiếu) than cho phép đạt tầm hoạt động tối đa 7.900 hải lý (14.600 km; 9.100 dặm) ở tốc độ đường trường 12 kn (22 km/h; 14 mph).[1]

Prinzregent Luitpold trang bị dàn pháo chính gồm mười khẩu pháo SK 30,5 cm (12,0 in) L/50 đặt trên năm tháp pháo nòng đôi.[1] Con tàu từ bỏ cách sắp xếp dàn pháo chính hình lục giác không hiệu quả trên các lớp thiết giáp hạm Đức trước đây; thay vào đó, ba trong số năm tháp pháo được bố trí trên trục giữa con tàu, với hai chiếc sắp xếp bắn thượng tầng phía đuôi. Hai tháp pháo còn lại đặt lệch hình thang giữa tàu, có thể bắn qua mạn.[6] Con tàu còn trang bị mười bốn khẩu pháo SK 15 cm (5,9 in) L/45 trong các tháp pháo ụ giữa tàu, tám khẩu 8,8 cm (3,5 in) SK L/45 trong các tháp pháo ụ và bốn khẩu 8,8 cm L/45 phòng không. Ngoài ra còn có năm ống phóng ngư lôi 50 cm (20 in), tất cả đều bố trí trong lườn tàu.[1]

Liên quan